Bổ sung quy định về căn cước điện tử
Luật Căn cước mới sẽ mở rộng đối tượng áp dụng. Ngoài áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, luật mới còn áp dụng đối với người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch. Dự thảo cũng đã bổ sung một điều về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam; quy định việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho những người này.
Luật Căn cước mới sẽ mở rộng, tích hợp nhiều thông tin khác của công dân và người gốc Việt Nam trong cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước để trực tiếp phục vụ việc ứng dụng tiện ích của thẻ căn cước, căn cước điện tử… Tất cả để bảo đảm hiệu quả triển khai Đề án 06 của Chính phủ.
- Đây cũng là một trong những quy định được bổ sung. Theo đó, thông tin căn cước của người dân chính là thông tin dùng để xác định danh tính điện tử và tạo lập tài khoản định danh điện tử (gọi là căn cước điện tử). Mỗi công dân chỉ có 1 căn cước điện tử là tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử của Bộ Công an tạo lập. Việc thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử phải sử dụng căn cước điện tử. Căn cước điện tử được sử dụng để thực hiện các giao dịch, hoạt động khác theo nhu cầu của người dân.
Căn cước điện tử có giá trị sử dụng tương đương như việc sử dụng thẻ căn cước trong thực hiện các giao dịch có yêu cầu xuất trình thẻ căn cước; có giá trị cung cấp thông tin trong các loại giấy tờ, tài liệu đã được tích hợp vào tài khoản định danh điện tử để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối chiếu khi thực hiện các giao dịch có yêu cầu xuất trình giấy tờ đó. Hiện nay, hệ thống định danh và xác thực điện tử được thiết kế có thể đáp ứng được 180 triệu lượt truy cập/ngày vào ứng dụng VNeID.
Thay đổi nơi cư trú không bắt buộc làm lại thẻ căn cước
- Bộ Công an có giải pháp nào để bảo đảm việc khai thác thông tin tích hợp trong thẻ căn cước được an toàn, bảo mật, thuận lợi?
- Trước hết phải khẳng định, thông tin của người dân trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước và lưu trữ trong thẻ căn cước là thông tin cần bảo vệ. Luật Căn cước mới đã xác định rõ nguyên tắc quản lý căn cước, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu căn cước là bảo đảm quyền con người và quyền công dân, chặt chẽ và an toàn. Đồng thời, trong triển khai thực tế, Bộ Công an có các thiết bị chuyên dụng để bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong khai thác dữ liệu từ thẻ căn cước có gắn chip.
Bên cạnh đó, việc khai thác thông tin trong thẻ căn cước được phân cấp, phân quyền cụ thể, bảo đảm đối tượng khai thác chỉ được phép khai thác khi thực hiện trong chức năng, nhiệm vụ được giao, tức là người được giao chỉ khai thác thông tin phù hợp với nhiệm vụ của mình và phải được người dân đó đồng ý thông qua việc xác thực bằng quét vân tay, khuôn mặt trên thiết bị hoặc qua ứng dụng di động VNeID.
Vậy câu hỏi đặt ra, nếu người dân bị mất thẻ căn cước thì có ảnh hưởng tới dữ liệu cá nhân không? Việc này, chúng tôi khẳng định, người dân bị mất thẻ căn cước nếu bị người khác sử dụng thẻ căn cước trái phép cũng không khai thác được thông tin tích hợp trong chip. Trong khi đó, người dân bị mất thẻ căn cước mà chưa có điều kiện việc cấp lại thẻ thì có thể thực hiện việc khai thác, sử dụng thông tin tích hợp qua căn cước điện tử.
- Luật Căn cước mới quy định cấp căn cước cho người dưới 14 tuổi, việc này có bắt buộc không?
- Trong Luật Căn cước mới quy định về quản lý, cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi và cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của họ và phục vụ công tác quản lý nhà nước. Việc này là để phát huy giá trị, tiện ích của thẻ căn cước trong hoạt động của chính phủ số, xã hội số. Tuy nhiên, việc cấp thẻ cho người dưới 14 tuổi sẽ thực hiện theo nhu cầu, còn đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên là bắt buộc.
- Khi công dân thay đổi nơi cư trú có phải làm lại thẻ căn cước không?
- Việc cấp đổi thẻ căn cước khi thay đổi nơi cư trú được thực hiện theo nhu cầu của người dân chứ không bắt buộc. Cũng phải khẳng định lại, căn cước công dân đã được cấp trước ngày luật này có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được ghi trong thẻ; chỉ khi người dân có yêu cầu thì được đổi sang thẻ căn cước mới. Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân vẫn nguyên hiệu lực pháp luật.
- Những thông tin in trên mặt thẻ căn cước mới dự kiến thay đổi, điều này có tác động tiêu cực đến người dân không?
Sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào tới quá trình tham gia các thủ tục hành chính của người dân. Theo đó, tại Điều 19 dự thảo luật sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ in vân tay trên mặt thẻ, dòng chữ “Căn cước công dân” trên mặt thẻ thay bằng “Thẻ căn cước”; “Quê quán” thay bằng “Nơi đăng ký khai sinh”; “Nơi thường trú” thay bằng “Nơi cư trú”; “Chữ ký của người cấp thẻ” thành dòng chữ “Nơi cấp: Bộ Công an”.
Việc thay đổi, cải tiến như trên sẽ tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước, hạn chế việc phải cấp đổi thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân. Các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chip điện tử trên thẻ căn cước. Việc chỉnh lý thông tin “Nơi thường trú” in trên thẻ căn cước công dân thành “Nơi cư trú” để phù hợp với thực tiễn vì nhiều người hiện nay chỉ có nơi tạm trú, nơi ở hiện tại hoặc không có nơi thường trú, nơi tạm trú. Với quy định này thì với tất cả người dân Việt Nam đều đủ điều kiện cấp thẻ căn cước.
Những thẻ căn cước công dân đã cấp vẫn còn nguyên giá trị sử dụng, không bị tác động bởi quy định này.
Việc cấp đổi thẻ căn cước khi có thay đổi thông tin về nơi cư trú được thực hiện theo nhu cầu của người dân chứ không bắt buộc. Khi chưa có điều kiện đổi thẻ căn cước thì người dân có thể tích hợp thông tin vào căn cước điện tử (đây là tiện ích miễn phí trên ứng dụng VNeID) để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại khác.